XE ĐẠP
Chiếc xe đạp rất đạp rất đẹp phải không các bạn?
nhưng rất ít ai biết rằng để có được kiểu dáng đẹp như vậy thì chiếc xe đạp đã trãi qua biết bao là sự cải cách kiểu dáng ấy nhỉ? chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Xe đạp là một phương tiện giao thông có hai bánh,
dùng bàn đạp để điều khiển, hai bánh xe được gắn trước và sau một khung xe . Đa số xe đạp chuyển động nhờ lực đạp
của người điều khiển, và giữ
thăng bằng nhờ định luật bảo toàn mômen quán tính.
Thế kỷ 19 ở Châu Âu xe đạp đã được đưa vào sử
dụng. Xe đạp là phương tiện chính của giao thông ở nhiều khu vực. Năm 2003, xe đạp có số lượng hơn một tỷ trên toàn thế giới. Xe đạp cũng là một
hình thức phổ biến cho giải trí,
và đã được điều chỉnh để sử dụng như đồ chơi trẻ em, thiết bị
trong phòng tập thể dục, các ứng dụng trong quân đội và cảnh sát, dịch vụ chuyển phát nhanh, và đua xe đạp.
Năm 1817, nam tước người Đức là Baron Karl von Drais đã phát minh ra chiếc xe mang tên ông gọi là Draisienne (xe của Drais) được xem là tổ tiên của xe đạp. Drais đã giới thiệu mô hình xe này cho công chúng tại Mannheim vào mùa hè 1817 và tại Paris năm 1818. Người lái ngồi dạng chân trên một khung gỗ được hỗ trợ bởi hai bánh xe và đẩy chiếc xe bằng hai chân của mình trong khi chỉnh hướng bằng bánh xe phía trước.
xe của Drais
Sáng kiến lắp thêm bàn đạp cho bánh trước được cho là thuộc về hai anh em Ernest Michaux và Pierre Michaux, thợ đóng xe ở Paris. Vào năm 1865, khi phải sửa chữa một cái Draisienne, họ đã lắp cho nó một chỗ để chân, mô phỏng tay quay của máy quay tay của họ. Tuy nhiên, trước đó, vào năm 1849, có thể một thợ cơ khí Đức là Heinrich Fischer đã sáng chế ra pê đan trước hai anh em Michaux. Pêđan ở bánh trước khiến cho bánh trước có kích thước lớn (lớn hơn bánh sau) để tăng quãng đường đi trong mỗi vòng đạp. Cải tiến này đã mang lại tên gọi mới cho thiết bị, bicycle (xe đạp).
Một số phát minh sau này đã sử dụng ổ đĩa phía sau bánh xe, nổi tiếng nhất là xe đạp sử dụng các thanh điều khiển của Thomas McCall, người Scotland năm 1869. Cũng trong năm đó, xe đạp có bánh xe với nan hoa của Eugène Meyer, người Paris , đã được cấp bằng sáng chế. Vélocipède (tiếng Pháp), chiếc xe đạp làm bằng sắt và gỗ, phát triển thành xe "penny-farthing" (trong lịch sử cơ khí được coi là "chiếc xe đạp bình thường"). Nó bao gồm một khung thép hình ống trên đó có gắn bánh xe có nan hoa với lốp cao su rắn. Những chiếc xe đạp này rất khó đi do chỗ ngồi cao và phân bố trọng lượng không tốt. Năm 1868 Rowley Turner, một đại lý bán hàng của Công ty máy khâu Coventry (mà nhanh chóng trở thành Công ty Coventry Machinist), mang một chiếc xe đạp của Michaux tới Coventry, Anh. Chú của ông, Josiah Turner, và đối tác kinh doanh James Starley, sử dụng chiếc xe đạp này để sản xuất xe đạp nhãn hiệu 'Coventry Model', và công ty trở thành nhà máy sản xuất xe đạp đầu tiên của Anh.
Xe đạp vốn được làm bằng gỗ. Từ năm 1869 các xe đạp này đã được làm bằng thép.
Năm 1879, một người Anh là Lawson đã sáng chế xích để truyền động cho bánh sau. Sáng chế này kèm theo các cải tiến ở khung, đùi, đĩa, pêđan, hệ tay lái và phuộc. Năm 1885, J.K Sartley cho bánh trước có cùng đường kính với bánh sau và làm cái khung bằng ống thép.
mô hình đầu tiên của xe đạp đã ra đời.
Năm 1887, John Boyd Dunlop, một nhà sáng chế Scotland , tiếp tục cải tiến bánh xe
với việc dùng ống hơi bằng cao su, do bánh xe lúc trước còn rất xóc.
Năm 1890, Roberton ở Anh và Édouard Michelin ở Pháp làm cho bánh có thể tháo lắp được.
xe đạp Phượng Hoàng ở Trung Quốc
Năm 1920,
do xe quá nặng nên người ta đã đổi thành ruột rỗng cho xe nhẹ hơn, chất liệu
của xe thì được đổi thành hợp kim.
Năm 1973, xe
địa hình được chế tạo ở California.
xe đạp địa hình
Sóc Trăng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét