Sơ lược về Dân ca Bắc Bộ
Bắc Bộ, chúng ta nghĩ đến một vùng đất có đồi núi và đồng bằng, có phong cảnh thiên nhiên
xinh đẹp hữu tình, có tài nguyên giàu có, trù phú. Con
người cởi mở, hào hiệp, nặng nghĩa nhiều tình... Phong cảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, nên càng khơi
nguồn âm điệu dạt dào giàu chất trữ tình... Dân
ca Việt Nam rất phong phú, tất cả những bài ca do dân quê sáng tác mà không thuộc về nhạc triều đình, không thuộc về nhạc thính phòng cũng như nhạc tôn giáo, tất cả những gì không thuộc về 3 loại trên,
được xếp vào loại dân ca.
Dân
ca là những bài ca không biết ai là tác giả, được truyền miệng từ
đời này sang đời khác, dính liền với đời sống hàng ngày của người dân quê, từ
bài hát ru con, cho tới bài hát trẻ em vui chơi, các loại hát lúc làm việc, hát
đối đáp, lễ hội thường niên.
Dân ca cũng mang màu sắc địa phương rất đặc
biệt, tùy theo phong tục, ngôn ngữ, giọng nói, âm nhạc của từng vùng mà
khác đi đôi chút.
Nói chung trong các bài dân
ca miền Bắc thường có những từ đệm như: “rằng, thì, chứ...” và các dấu giọng
như: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng được dệt bới những nốt nhạc sao cho việc phát
âm được rõ nét. Một số phụ âm được phát âm một cách đặc thù như: “r, d, gi” hay
“s và x” phát âm giống nhau, không phân biệt nặng nhẹ, và luôn luôn bắt đầu bằng chữ "à…ời…à…ơi".
Chúng ta thấy là thang âm đó được tìm thấy trong rất
nhiều những bài dân
ca miền Bắc chẳng hạn như bài "Cò lả". Đó là những bài hát đi vào từ hát
ru, đứa trẻ nghe được và thấm nhuần thang âm đó, rồi khi lớn lên nó sẽ đi
vào những cuộc thi hát với nhau hay trong các loại như là hát trống quân, hát
quan họ, hát phường vải, hát xoan, hát ví… tất cả những loại đó đều thoát thai
từ thang âm ngũ cung như tôi vừa nói.
Hát dân ca miền Bắc, mỗi một loại đều có những truyền
thống rất đặc biệt
và rất khó, đặc biệt ở miền Bắc có loại gọi là hát hội. Hát hội có nhiều loại,
thí dụ hát trống quân, hát quan họ, cò lả ở vùng Bắc Ninh, hát phường vải
ở Nghệ Tĩnh, hát ghẹo ở Thanh Hóa, hát xoan ở Phú Thọ.
Hát xoan Phú Thọ
Hát hội hay hát
đối thường mang những đặc điểm chung như sau: người hát và làng xã phải
đối với nhau, thí dụ: nhóm nam ca sĩ phải đối với nhóm nữ ca sĩ và phải
thuộc làng xã khác nhau, hầu hết đều có đặc tính là hát tình ca để đưa đến
vấn đề hôn nhân, đồng thời, đặc tính đoàn thể cũng rất được nhấn mạnh, chẳng
hạn, trong quan họ có tục kết bạn thuộc vào gia đình quan họ, có liền anh,
liền chị, anh hai, chị hai, anh ba, chị ba, theo thứ tự, tùy theo người hát giỏi
hay dở chứ không kể vào tuổi tác, có thể người anh hai 30 tuổi, người anh
tám lại 80 tuổi.
Hát ghẹo ngày xuân
Truyền thống kết bạn trong một gia đình được thấy
trong hát ghẹo ở Thanh
Hóa, hát xoan ở Phú Thọ cũng có tục kết nghĩa với nhau. Thi đua là một
trong những đặc tính quan trọng trong một cuộc hát đối, các người hát phải
thi đua về trí nhớ, lời ca hay óc nhạy bén, phải tùy cơ ứng biến. Nhưng điều
quan trọng nhất trong hát đối đáp phải ứng tác ứng tấu nghĩa là bên kia hát
mình phải đối lại về cả nhạc và lời, chỉ có trong quan họ là có vấn đề điệu
nhạc đối và lời hát đối với bên kia.
Do những đặc tính đó, trong quan họ,
mỗi lần gặp nhau nảy sinh ra một số bài hát mới, tính cho đến hôm nay, truyền
thống quan họ có trên 600 bài khác nhau, trong khi đó, những loại dân
ca khác như cò lả hay trống quân chỉ có 1 giai điệu thôi. Đặc trưng của nhạc
Việt Nam
là dấu và thanh, nó làm thay đổi làn điệu nhưng vẫn giữ đúng
màu sắc.
Hát trống quân
Trong văn chương dân gian của người Việt Nam và trong các
loại nhạc dân ca
của Việt Nam thì người ta chú trọng nhiều về lời hơn là về nhạc. Khi hát hội, thường
xảy ra trong một phạm vi địa lý nhỏ hẹp như Bắc Ninh, Thanh Hóa, Phú
Thọ…
Mỗi một cuộc thi hát thường chia làm 3 hay 4 giai đoạn như hát mời
ăn trầu trong trống quân, hát giọng lề lối trong quan họ, hát dạo, hát chào,
hát mừng, hát hội của phường vải, hát dạo, hát mừng, hát thăm trong hát
ghẹo.
Sau khi mở đầu của hát thi thì đến phần trả lời câu đố trong trống quân,
giọng vặt trong quan họ, hát đố, hát đối trong phường vải, hát đối, hát se
kết trong hát ghẹo. Sau đó, là những cuộc thi tiếp tục giai đoạn 3 gồm có: hát
khen tặng trong trống quân, hát mời se kết trong phường vải; giai đoạn cuối
cùng là hát tiễn trong phường vải, hát giã bạn trong quan họ, hát thề, hát
dặm trong hát ghẹo, hát giã bạn trong hát xoan…
Hát quan họ Bắc Ninh
Chúng ta có thể thấy rằng những điệu hát trong dân ca
miền Bắc rất phong
phú và theo lề lối, lời hát thì có nhiều từ ngữ Hán Việt, thành ra người hát phải có trình độ cao thì mới có thể hát và
hiểu được.
Sóc Trăng (sưu tầm)